Việt Văn Mới
Việt Văn Mới








TRƯƠNG CHI - MỴ NƯƠNG   





N ày Mỵ Nương, trong cõi người vô minh, nàng là ai? Ta xin thắp lên ngọn nến nhỏ, để một lần được thấp thoáng thấy khuôn mặt nàng

Vừa sải bước xuống thuyền, khách đã nghe một giọng già nua cất lên ở cuối khoang:

-Này Cầm nhi, khách quan đã tới, con mau mau ra đón khách.

Đáp lại là một tiếng dạ khẽ khàng, tuy trong trẻo mà đượm chút gì mệt mỏi, chán chường.

Khách nhẹ tay vén rèm lụa mỏng, cúi mình bước vào khoang trước. Khoang thuyền rộng bằng hai manh chiếu, bài trí sơ sài mà trang nhã. Dưới ánh sáng bạch lạp, khách đã bước vào tuổi vãn niên, tóc lấm tấm điểm bạc, khuôn mặt xương xẩu hơi khó coi, duy chỉ có đôi mắt sáng thật hiền. Còn kỹ nữ, nàng ôm chiếc đàn tỳ đứng nép vào một bên, vóc dáng mảnh mai, khuôn mặt thanh tú, trang điểm sơ sài, lớp phấn mỏng không che nổi dấu tích thời gian đã hằn nhẹ ở đuôi mắt thành những vết chân chim.

-Khách quan, mời ngồi.

Khách mỉm cười:

-Nghe lời bằng hữu, hôm nay tới quấy quả cô nương.

-Khách quan đã quá lời.

Kỹ nữ vén tay pha trà, nước xanh, trong suốt, hương không ngát mà đượm, trên miệng chiếc chén da chu quyện một lớp khói mỏng như sương.

-Khách quan, gió lạnh, mời người dùng đỡ cho ấm lòng. Sau tuần trà mới tới rượu nhạt tẩy trần.

Khách nâng chén, che tay nhấm nháp từng ngụm nhỏ.

-Trà ngon, pha khéo, đủ gợi được cái thú của cổ nhân.

-Một nắm vối xanh, chất quê, đâu dám học đòi lối pha của Lục Vụ.

Khách sẽ sàng:

-Đã lâu nghe tiếng Cầm nương là tay cự phách trong giới cầm ca, hôm nay mới có duyên may được găp.

Giọng kỹ nữ đưa đẩy, nhưng không giấu được chút chán chường:

-Khách quan quá khen, tôi chỉ là một bóng mờ trong đám ca kỹ trên sông. Những mong người có thể tìm khuây trong tiếng đàn là tôi mãn nguyện lắm rồi.

Khách nhìn thẳng vào mặt người đối diện:

-Cô nương xin thứ cho một lời nói thẳng. Quả thật trong mắt bọn tục nhân, nàng chỉ còn là một bóng mờ, nhưng tôi tới đây, cốt để gặp một bậc tài hoa trong làng cầm nghệ.

Nét mặt người con gái thoáng chút rạng rỡ:

-Quá khiêm cũng là bất kính. Khách quan, chẳng hay người muốn thưởng thức khúc nào?

-Tôi trộm nghe khúc điệu làm vướng tay bậc tài hoa. Trong cảnh giới tối cao của cầm nghệ, không gì bằng thuận theo tiếng lòng mà phổ vào bốn giây.

-Khách quan, giữa đêm trăng lạnh còn nghe tiếng đàn buốt giá, nên chăng?

-Bỏ ra trăm quan tiền tốt để mua lấy tiếng đàn tuy điêu luyện mà vô hồn, đó là cái ngốc của bọn trưởng giả học đòi. Cô nương, tôi nửa đời phiêu bạt, cảnh ngộ nào mà chưa trải qua. Đêm nay tới đây, thân khoác một manh áo mỏng, những mong cảm nhận được hết cái lạnh lẽo của gió sông và cái giá buốt của cõi lòng.

Cầm nương cúi đầu, so phím, dạo một khúc đàn. Quan sát thấy vẻ mặt khách lạnh lùng, vô cảm, nàng dừng tay.

-Xin được nghe lời chỉ giáo.

Khách nghiêm giọng:

-Cô nương xin đừng gượng vui.

Kỹ nữ thở dài:

-Quả nhiên không thể mượn vải thưa che mắt người sành điệu. Khách quan, mười lăm năm bèo trôi mặt nước, tôi vẫn tự dặn mình: mãi nghệ bất mãi thân, mãi tiếu bất mãi tâm, e rằng hôm nay nguyên tắc thứ hai không thể giữ vẹn nữa rồi. Cảm ơn tri ngộ, đành đem chút lòng thành trang trải qua tiếng đàn để phụng bồi quân tử.

-Đa tạ cô nương đã vì tôi phá lệ một lần.

Kỹ nữ quay về phía tủ trà, trang trọng bưng ra một lư đồng nhỏ, đặt nhẹ xuống bàn, rồi lặng lẽ gây lò trầm. Sợi khói mong manh tan loãng vào không gian cùng với hương trầm thoang thoảng. Ánh trăng nghiêng nghiêng chiếu chếch vào cửa khoang, nửa khuôn mặt người kỹ nữ khuất trong bóng tối mung lung. Phải chăng gió sông trở lạnh, mà sao nàng thoáng rùng mình.

-Tiện nữ bêu xấu, xin người đừng chê.

Tiếng đàn chợt vang lên, đầm ấm như nắng mùa xuân, trong âm thanh rộn rã dường như có tiếng cười khúc khích. Bỗng nhiên giọng đàn chùng lại, đứt quãng, rồi chợt tan vụn thành một chuỗi nghẹn ngào. Âm thanh cao, sắc, đã không tạo thành cảm giác vui tươi, mà tưởng chừng tiếng nức nở của một cõi lòng bị xé nát.

Khách ngồi bất động, cau mặt, cúi đầu.

Tiếng đàn đang cao vút, sắc lạnh, bỗng đổ xuống cung trầm, thoang thoảng như vọng lại tự cõi nào, âm thầm chịu đựng.

Có giọng ngâm se sẽ, chất chứa nỗi sầu:

Mười ngón ngả nghiêng điệu xuất thần,
Chừng khuya bừng tỉnh giấc tiền thân.
Vội vàng buông lỏng dây ân ái,
Mà vẫn mơ hồ dáng cố nhân.

Tiếng ngâm dứt, cây đàn rộn lên vài âm thanh xôn xao, lạc lõng rồi cũng ngường theo.

Có tiếng nhẹ như gió thoảng:

-Khách quan, người thấy sao?

Khách bàng hoàng chợt tỉnh:

-Nửa đầu là tiếng lòng thiếu nữ đang xuân gửi người tri kỷ, mà sao nửa sau lại khôn xiết ngậm ngùi.

-Quả là đôi tai Sử Khoáng. Khúc này vốn của một bậc tài hoa bạc mệnh. Khách quan người có từng nghe nói tới cuộc tình Trương Chi, Mỵ Nương chưa?

-Trương Chi, phải chăng anh chàng đã trao lầm trái tim cho một tiểu thư bạc bẽo, đỏng đảnh?

-Ngay cả người cũng nghĩ thế sao? Như vậy mối hàm oan biết ngày nào rửa sạch.

Khách gượng cười:

-Chẳng hay tôi có lời nào đường đột?

-Đường đột thì không phải, vì từ ngàn xưa tiếng đời mai mỉa vẫn lưu truyền. Vậy khách quan đã nghe được gì?

-Có một anh chàng Trương Chi xấu xí thổi sáo bên sông, làm say lòng tiểu thư con lão viên ngoại. Ba ngày không nghe tiếng sáo, tương tư trở bệnh, nàng ốm liệt giường. Viên ngoại chiều con, cho đòi tiêu lang mang sáo tới gặp. Khi thấy khuôn mặt xấu xa, quái dị, Mỵ Nương vỡ mộng, lạnh lùng xua đuổi. Từ khi gặp mỹ nhân, Trương Chi ôm mối hận lòng, héo mòn đến chết, trái tim chàng kết thành khối ngọc. Viên ngoại mua được, liền sai tiện thành chiếc chén nhỏ tặng con. Khi nước đầy, trong đáy chén phảng phất hình bóng chiếc thuyền nan, lênh đênh trôi dạt. Một phút chạnh lòng, cô gái bội bạc để rơi đôi giọt lệ xuống chén ngọc, chén liền tan vụn.

-Tuy phần cuối tưởng chừng có hậu, nhưng đây chính là thiên cổ kỳ oan. Cô gái không bao giờ gặp lại tiêu lang, khách quan có hiểu vì sao không? Ba lớp cửa phòng the, kể cả khung cửa sổ hướng ra sông đã bị viên ngọai sai người khóa chặt. Từ đó gây thành sự hiểu lầm oan nghiệt ngàn đời.

Cô gái bưng chén trà nhấp giọng.

-Khách quan xin theo tiện nữ.

Cô gái nhẹ tay vén rèm rồi đứng lui về một bên. Khách khom người bước ra vùng ánh trăng, manh áo mỏng lồng lộng bay theo chiều gió. Xung quanh thuyền, sông như một giải lụa uấn éo trải dài.

Cô gái đưa tay vuốt lại mớ tóc mai lòa xòa trước trán.

-Khách quan, đây chính là con sông đã xảy ra cuộc tình Trương Chi, Mỵ Nương. Còn kia là lầu Mỵ Nương thuở trước, căn lầu hoang phế thấp thoáng sau rặng liễu già. Đứng ở mũi thuyền có thể thấy một khuôn cửa nhỏ, cửa sổ lầu Tây đã đưa tiếng sáo Trương Chi lọt tới chốn phòng khuê.

Khách nhìn kỹ, ánh trăng đủ sáng để thấy mấy thanh gỗ đóng chặt phía ngoài.

Cô gái lại tiếp:

-Phía xa kia, khách quan thấy không? Sương mù, khói sóng dường như ngưng tụ ở cả một nơi. Tương truyền đó là chỗ con thuyền Mỵ Nương đã chìm sâu dưới đáy Trường Giang. Ngày nay thuyền gia vượt sông, thường lách sang bờ bên kia, một là để tỏ lòng kính trọng, hai là khúc sông đó có nhiều vũng xoáy, kẻ xấu ngoa truyền cho rằng Mỵ Nương đã tạo ra để bắt hồn khách thương.

Thoáng nghe một tiếng thở dài, kỹ nữ ngưng kể, lát sau mới tiếp:

-Trở lại khúc đàn khi nãy, khách quan người có cao kiến gì?

-Tôi không dám lạm bình, đành mượn một sáo ngữ, đúng là vạn cổ sầu.

-Nỗi vạn cổ sầu đó một thiếu nữ hời hợt, đỏng đảnh có đủ khả năng cô đọng vào cung bậc trầm uất của bốn dây được hay không?

Khách đắn đo:

-E rằng vạn lần không.

-Chỉ tiếc ngón nghề non nớt, tôi e chưa thể hiện được hết cái khúc mắc, tinh tế của bản đàn chứa chan tâm sự.

-Cô nương quá khiêm mất rồi.

Kỹ nữ mỉm cười:

-Tôi lại nghe có kẻ không thích Ly Tao, Quy Khứ, chẳng phải là chê từ Khuất Nguyên, thơ Đào Tiềm, mà vì lòng đang sục sôi bay nhẩy. Bởi thế cảm thụ nghệ thuật trước hết cần có sự đồng cảm, đồng điệu. Tương tư tiếng sáo đến nỗi bạt vía, bay hồn, thân lâm trọng bệnh, hiện tượng ấy há chẳng phải xuất phát từ sự đồng cảm đã tới cảnh giới tối cao đó sao? Như vậy còn xá chi vẻ xấu đẹp bề ngoài.

Khách nghiêng mình:

-Quả là cao luận.

Kỹ nữ lại tiếp:

-Tiếng đời mai mỉa, chê Mỵ Nương là một tiểu thư xốc nổi, phù phiếm, bội bạc. Khách quan, người nghĩ sao?

Khách thở dài không đáp, lặng lẽ rót đầy ly rượu, rồi trang trọng rải xuống mặt sông. Một lát sau mới ân cần:

-Xin rửa tai nghe lời trần tình.

-Miệng đời thế nào xin gác một bên, riêng ở vùng tôi, theo lời các bậc thượng trưởng từ mấy trăm năm nay…

♣ ♣

-Gió đêm lạnh lẽo sao ngươi lại nằm đây?

-Bạch cụ, tôi là một gã quê mùa xấu xí, dị dạng, mọi người vừa thấy đã cắm cổ chạy xa, chỉ xin ngả lưng dưới mái tam quan cũng đủ tốt rồi.

-Trước mắt Phật môn đệ tử làm gì có xấu đẹp, vào thôi.

Sư già nắm tay gã dìu đứng dậy, dắt vào chùa. Chùa chẳng qua là ba gian nhà cỏ, gã bình thản bước vao gian chính giữa, nơi đặt bàn thờ Phật. Trên bàn thờ chỉ có ba cây nhang cháy đỏ cắm trong chiếc bát sành với một pho tượng nhỏ bám đầy bụi bặm. Gã trơ mắt đứng nhìn. Có tiếng sư già:

-Thấy Phật sao không lạy?

-Phật ở trong lòng biết lạy làm sao?

Sư già cười, dắt gã ra phía chõng tre kê bên khóm trúc:

-Ngươi có đói không?

-Hình như cả ngày chưa có hột nào trong bụng.

Sư già vào bếp lấy ra một rổ khoai.

-Ta ăn với ngươi.

Ở miệng sư già, tiếng ngươi không hề lộ một chút khinh bạc.

-Nhà ngươi ở đâu?

-Hình như ở khắp bốn phương, lâu ngày cũng quên mất gốc, chỉ nhớ mang máng lúc nhỏ cha mẹ bỏ quên giữa chợ, mỗi người thương tình nuôi cho ít bữa, về sau theo hẳn một lão nghệ nhân lang thang đây đó. Lúc rảnh rỗi lão cũng dậy cho ít chữ cua bò với nghề thổi sáo. À quên, lão còn đặt cho một cái tên: Trương Chi.

-Lão đâu sao không thấy?

-Mấy năm trước, tôi đã vùi xác lão trong một nắm cát ven sông. Lão để lại cho tôi một gia tài

Gã vỗ tay vào bọc vải sau lưng:

-Đố cụ biết gì đây?

-Vàng bạc ư? Quần áo ư?

-Mấy quyển Đường thi, dăm cuốn Tống từ, với một cây sáo trúc, tuổi cũng xấp xỉ bằng cụ.

Sư già cười hóm hỉnh:

-Vậy trong ba trăm nhà, ngươi chuyên trị nhà nào?

-Ôi chào, mở sách thấy câu nào hợp ý thì ngâm nga. Thần trí hồ đồ, lâu ngày chầy tháng đọc lên, chẳng còn phân biệt câu nào của lão Đỗ, lão Lý với của lão Trương tôi.

Sư già cười ha hả:

-Ta với ngươi cùng một giuộc, thỉnh thoảng vớ được mảnh giấy cũ, đọc láp nháp mấy câu, ý nào hay thì nghiền ngẫm, cũng chẳng rõ của Phật, của Lão, hay của Trang, đôi lúc dấm dớ lại cứ tưởng là ý của mình. Còn kinh với kệ, nói ra xấu hổ, ta chỉ thuộc mỗi một câu: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

-Thế cụ không thuộc giới sao?

Sư già xoa xoa đầu trọc:

-Cũng không rõ nữa.

-Thế cụ có giới sát không?

Sư già trừng mắt: 

-Mỗi chúng sinh có một mạng sống, ai cho ngươi tước đoạt.

-Thế cụ có giới sắc không?

-Cặp mắt ta lèm nhèm, nhìn trước, nhìn sau, chẳng biết ai là nam, là nữ, cũng bất phân xấu đẹp, cần quái gì giới sắc.

Nhìn cặp mắt già còn rất sáng, gã gật gù.

Hai người vừa nói lăng nhăng, vừa nhai nhồm nhoàm. Gã lựa một củ lớn.

-Củ lớn phần tôi, củ nhỏ phần cụ.

Ăn lưng một bụng, uống cạn một bát nước vối, gã xoay trần, vắt áo lên cành cây.

-Sảng khoái, sảng khoái.

Sư già cũng bắt chước gã, xoay trần vắt áo lên cành cây, cả thân hình như bộ xương khô. Gã nhăn mặt:

-Áo của cụ vừa rách, vừa hôi.

Sư già thản nhiên:

-Nếu có ai bố thí cho khúc lụa hồng, ta sẽ may một tấm cà sa mặc khi mùa hạ, nếu bá tánh cúng dường khúc gấm Hằng Châu, ta sẽ may tấm áo cà sa mặc lúc mùa đông.

Gã cười sằng sặc, chỉ tay vao mặt sư già:

-Cụ đúng là một lão hổ mang.

Sư già cũng cười ha hả:

-Còn ngươi chính là gã tiểu khật khùng.

Cười đã, cả hai vắt chân nằm ngửa ngắm trời. Được một lúc, sư già vùng dậy, quay sang gã:

-Này tiểu khật khùng, hay là ngươi ở lại chùa ăn lưng cơm hẩm với lão hổ mang?

Đôi mắt nhắm nghiền, không biết gã đã ngủ chưa, mà không nghe tiếng trả lời…

♣ ♣

Gã quyết định xếp áo ở lại chùa. Đêm đến gã cùng sư già ra sông, thả thuyền ngắm trăng. Hai bên bờ, từng rặng lệ liễu lòa xòa làm tăng thêm cảm giác mênh mông, cô tịch. Gã với tay lấy bầu rượu.

-Cụ có giới tửu không?

-Việc quái gì phải giới, có điều thực lòng tư nhỏ ta vốn không ưa mùi rượu.

-Thất lễ.

Gã nâng bầu rượu, tu ực một ngụm lớn, rồi hà hơi vào lòng bàn tay.

-Sảng khoái, sảng khoái. Có trăng, có rượu, không thể thiếu tiếng tơ, tiếng trúc.

Gã với tay rút ống sáo trúc giắt sau lưng, đưa lên môi. Tiếng trúc vang lên, mơ hồ, lãng đãng. Đầu gã nghiêng nghiêng, vai hơi lệch về một phía, cả tâm hồn như ngưng đọng. Một gã Trương Chi đời thường với một gã Trương Chi thổi sáo, hình như chẳng còn gì liên hệ với nhau. Âm thanh vút lên, lạnh lẽo, cô độc, tiếng rung ở đầu lưỡi, tiếng láy ở ngón tay, tạo thành một cảm giác run rẩy, bồn chồn. Những âm thấp nghe như tiếng nghẹn ngào, uất ức. Tiếng tiêu của gã làm cho cả bầu trời cũng giá buốt thêm.

Sư già ngồi ở đầu thuyền, bó gối, lưng như còng xuống, đầu cúi gục vào vòng tay…

♣ ♣

-Ngọc nhi, em có nghe thấy không, tiếng sáo văng vẳng đâu đây thật lạ lùng, âm thanh mềm mại mà sao chứa chan dằn vặt, uất ức. Em mau gây cho ta lò trầm.

-Tiểu thư mỗi khi gẩy đàn lại đốt trầm, phải chăng là cái ước lệ của cổ nhân?

-Trầm hương có khả năng làm bình tâm, tịnh khí, gạn đục khơi trong. Giữa cõi vô minh mình lại gặp mình, như vậy mới mong trải hết tâm tình trong cái tinh tế của bốn dây.

Cung đàn dạo lên vài tiếng rồi bắt đầu quyện lẫn với tiếng tiêu. Tiếng tiêu khựng lại một chút, rồi cũng hòa lẫn với tiếng đàn. Một người thả thuyền giữa sông, một người ngồi bên khung cửa, dường như không còn ý niệm thời gian. Càng lúc tiếng đàn, tiếng trúc càng có vẻ hòa quyện ấm áp hơn.

Âm thanh dứt hồi lâu, sư già mới bừng tỉnh:

-Quả là lạc vào cõi thần tiên.

Gã có vẻ suy nghĩ mông lung:

-Tôi chỉ thuận miệng mà thổi, chẳng theo khúc điệu nào, không hiểu sao tiếng đàn, tiếng trúc như quyện lẫn vào nhau, thanh âm hòa hợp.

Sư già trầm ngâm. Giữa khoảng trời cao lồng lộng, sư già hình như biến hẳn thành một con người khác, từ ngôn ngữ, cử chỉ tới dáng dấp đăm chiêu.

-Lòng ngươi chớm nghĩ tới mây bay, tiếng đàn đã vút lên; ngươi vừa nghĩ tới nước sâu, tiếng đàn đã lanh tanh, trong suốt; ngươi chợt nghĩ tới đôi lứa yêu thương, tiếng đàn đã đầm ấm, vui hòa. Đó chính là sự đồng cảm trọn vẹn của hai tâm hồn.

-Hai người chưa từng gặp mặt, đã có sự đồng cảm hay sao?

-Trong cõi thâm sâu, huyền nhiệm của nghệ thuật, sự đồng cảm đã từng xảy ra giữa hai con người sống cách nhau hằng trăm năm. Tiếng sáo của ngươi há chẳng phải là tiếng lòng đó sao? Nhưng hiểu rõ lòng nhau, tiếc rằng thế gian này rất hiếm.

Trương Chi thở dài:

-Chả trách Tử Kỳ chết, Bá Nha đành phải đập đàn.

Sư già vỗ vai gã, chỉ phía bờ sông:

-Tiếng đàn vang lên từ nơi ấy. Ngươi thấy không? Cửa sổ lầu Tây, thấp thóang một ánh trăng, một bóng ngọc, áo lụa bạch phơi phới, tóc xõa che gần kín khuôn mặt vốn đ ã mơ hồ, lãng đãng như gái liêu trai. Tiểu khật khùng ơi! Định mệnh của ngươi đã ở đó rồi. N ày, ngươi có nghe ta nói hay không?

Gã giống như pho tượng, tay nâng sáo trúc, chưa chạm đến môi, bất động…

♣ ♣

-Này lão hổ mang, đêm nay tôi lại muốn ra sông câu cá, cụ có đi không?

Sư già cười khoan dung:

-Ngươi thật lòng muốn rủ ta ư?

Phương đông trời bỗng chuyển mây đen, sấm chớp ầm ầm, trận mưa ập đến thật mau, kéo dài bất tận, ba ngày ba đêm mưa không dứt hột, đêm đến mưa càng mau hơn. Vậy mà cả ba đêm liền, gã đều đội nón mê, khoác áo lá, lặn lội ra sông.

-Tôi đi kiếm ít cá tươi.

-Mưa dông cũng câu cá được sao?

Gã không trả lời, cúi đầu lầm lũi bước đi. Hình như ông trời có thù riêng với gã.

Sáng thứ tư, mưa dứt hột, trưa trật gã mới khật khưỡng về chùa.

-May quá, đêm qua câu được con trắm to, tôi mang ra phiên chợ sớm đổi lấy cút rượu ngang…

♣ ♣

Ba đêm liền cả trời vần vũ.

Đêm thứ nhất- Bên khung cửa đóng kín, Mỵ Nương giọng bồn chồn:

-Ngọc nhi, em mau mở cửa cho ta nghe tiếng sáo.

-Tiểu thư, mưa quá lớn, gió thổi ngược, tiểu thư không sợ ngã bệnh hay sao?

Đêm thứ hai- Trời vẫn đổ mưa, Mỵ Nương ngồi gục bên bàn:

-Ngọc nhi, mở cửa sổ, tiếng sáo đang đợi ta.

Đêm thứ ba- Trời mưa càng nặng hạt, Mỵ Nương co quắp trên giường, giọng thều thào:

-Ngọc nhi, mở cửa…

Đêm thứ tư- Trương Chi ngồi rũ trên ổ rơm ở góc nhà, cả người đông cứng như hóa đá. Có tiếng sư già:

-Tiểu khật khùng, viên ngoại cho người tới tìm ngươi.

Mắt gã sáng lên:

-Vậy sao?

-Ngốc tử, ngươi không mau đi đi.

Gã dắt sáo vào lưng, tất tưởi bước ra.

Gã được dẫn vào một gian đại sảnh bài trí cực kỳ xa hoa. Trong phòng đốt hơn mười cây bạch lạp, gã thấy mình lạc lõng, thừa thãi. Có tiếng lão viên ngoại:

-Ngươi đấy ư?

Gã quay lại hơi gật đầu. Ánh bạch lạp chiếu hắt vào mắt gã.

Lão viên ngoại chợt nhăn mặt, hàng lông mày trắng sụp xuống. Lão vẫy gọi tên gia nhân, giọng khinh mạn không cần hạ thấp:

-Lấy mấy đồng tiền kẽm cho hắn, rồi bảo hắn đi đi.

-Nhưng còn cơn bệnh của tiểu thư?

-Thôi được, đưa hắn vào hậu viên.

Gã băng qua hoa viên, thẳng bước tới một ngôi lầu nhỏ xinh xắn. Gã leo vội mấy bậc thang, bước lên lầu hoa. Từ chỗ gã đứng có thể nhìn thấy mặt sông trải đầy trăng sao. Có tiếng nói nhỏ phía sau rèm:

-Tiểu thư, chàng tiêu đã đến.

-Thế ư, em đỡ ta ngồi dậy.

Gã đứng dựa vào cột lầu, ngẩng mặt nhìn trăng, rồi từ từ đưa sáo lên môi. Tiếng tiêu nhẹ nhàng vút lên.

-Em mau gây cho ta lò trầm

-Tiểu thư muốn họa đàn ư? E rằng còn bệnh.

-Ta khỏi hẳn rồi.

Từ phòng khuê vọng ra một giọng nhỏ nhẹ, êm ái:

-Tiêu lang đó ư? Xin được một lần cách rèm xướng họa.

Tiếng đàn, tiếng sáo lại quyện lẫn vào nhau. Hình như thời gian trôi rất chậm. Lúc tiếng đàn, tiếng sáo ngưng hẳn, toàn thân gã vẫn ngây ngất trong một cảm giác bâng khuâng. Có bóng Ngọc nhi lấp ló sau rèm, rồi tiếng thì thầm:

-Chàng xấu xí quá, xấu đến kinh người.

Mỵ Nương giọng thản nhiên:

-Thế ư?

Lão viên ngoại đằng hắng phía sau làm gã giật mình.

-Ngươi còn ở đó làm chi?

Lão vẫy gọi tên quản gia:

-Mau cho hắn ba quan tiền kẽm thưởng công chữa bệnh, rồi đuổi hắn đi đi…

Đêm đã rất khuya vẫn không thấy gã về chùa. Sư già men theo ánh trăng ra phía bờ sông. Gã đứng đó, đôi mắt mung lung, sư già tới gần vẫn không hay biết. Gã không xuống thuyền, gã không thổi sáo, gã đứng bất động hằng giờ, mảnh áo rách phơi trần da thịt trước ngọn gió cuối thu. Gã lạnh lùng , vô cảm, nhưng lòng gã dường như đang sôi sục. Sư già lặng lẽ về chùa, để mặc gã một mình gậm nhấm nỗi đau.

Sáng sớm vác chổi ra sân quét lá, sư già thấy gã nằm vật dưới mái tam quan, miệng lảm nhảm, đứt quãng, chẳng biết tiếng ngâm hay tiếng rên:

Nàng như người ở chiêm bao
Ta như lạc tự thuở nào tới đây…

Sau khi được đổ một bát nước gừng nóng, gã hồi tỉnh từ từ, hình như trong mắt có điều muốn nói. Cả ngày hôm đó gã không ăn, không uống, mắt mở trừng trừng, nhưng hồn như chìm vào cõi hôn mê. Ba ngày trôi qua, tình trạng gã càng tồi tệ thêm.

Sư già hết ra lại vào, nhìn gã xót xa. Tới ngày thứ tư, gã bừng tỉnh, run run níu chặt lấy tay sư già.

-Lão sư phụ, xin giúp cho một điều, làm ơn trao lại tấm lòng này cho người tri kỷ.

Gã nói như trong cơn mê sảng, không đầu không cuối. Sư già lặng lẽ thở dài, còn gã nấc lên, đôi mắt nhắm nghiền, khép kín lại một vòng trầm luân.

Sớm hôm sau, khi bầu trời còn lác đác sao thưa, sư già âm thầm khiêng xác gã tới bãi sông, đặt gã nằm trên một mảnh ván tạp, chất kín chung quanh từng bó củi khô. Sư già rót đầy một bát rượu, rưới lên mình gã, giọng trang nghiêm:

-Này tiểu khật khùng, ta vốn không thuộc kinh siêu độ, chỉ muốn hỏi ngươi một lời: liệu hồn ngươi đã siêu thoát hay chưa?

Sư già đánh hỏa liệu, chậm chạp mồi lửa, lửa đỏ theo gió bùng lên, củi khô nổ lách tách, ngọn lửa liếm từ từ, rồi nuốt trọn thân gã. Sư già cúi đầu nhìn đất, mắt như đứng tròng, dáng như pho tượng. Thời gian trôi qua không biết bao lâu, sư già mới giật mình bừng tỉnh. Ngọn lửa đã hầu tàn, chỉ còn thoi thóp, thỉnh thoảng cố vùng vẫy bùng lên.

Lửa lụn dần, sư già ngồi xổm, dùng đôi đũa tre bới đám tro xương.

-Này tiểu khật khùng, ta hỏi ngươi lần nữa: hồn ngươi thực sự đã siêu thoát hay chưa?

Sư già chỗi dậy, đứng sững bên bờ sông, mảnh áo cà sa bạc phếch bay phần phật trong gió sớm. Lặng lẽ hồi lâu, sư già mới chậm rãi rải từng nắm tro xuống mặt sông, tro tàn tản mạn tung bay theo gió.

-Vật này vốn không phải của ngươi.

Cuối cùng dưới đống tro còn sót lại một vật cứng bằng nắm tay, sư già lấy vạt áo nâu lau sạch lớp tro than bám bên ngoài. Vật cứng có hình trái tim, trong suốt, sắc hổ phách ngả màu nghệ già, bên trong vằn lên từng tia máu đỏ. Sư già ngậm ngùi, mân mê khối ngọc, rồi thì thầm:

-Vật này là của ngươi. Này tiểu khật khùng, ta hiểu mà, cỡ như ngươi làm sao siêu thoát nổi.

Bỗng trong mắt sư già hai giọt lệ lăn dài xuống gò má nhăn nheo như hai quả trám khô, những giọt nước mắt già nua, rất hiếm, tưởng đã cạn kiệt.

Công việc hoàn tất, sư già vẫn bịn rịn không muốn rời, mãi tới lúc mặt trời lên bằng hai con sào, sư già mới lầm lũi trở về. Tới chùa, vị sư ngâm ngập khối ngọc trong một tô rượu lớn.

-Này tiểu khật khùng, ta phá lệ đãi ngươi một chầu.

Sư già rót thêm một tô nữa, rồi ngửa cổ uống một hơi cạn sạch. Lãng đãng đâu đây, hình như trong khối ngọc, chợt vẳng tiếng sáo, tiếng ngâm:

Nàng như người ở chiêm bao
Ta như lạc tự thuở nào tới đây…

Lại thấy thấp thoáng bóng thuyền nan với gã lái đò gác chèo thổi sáo. Sư già thoáng rùng mình, bừng hiểu lời trăn trối có vẻ không đầu, không đuôi, liền xốc lại manh áo rách, bước thấp, bước cao tới gõ cổng hoa viên.

-Trưởng lão, người hạ cố tới thăm, hẳn có điều chi bảo ban?

-Chẳng dám, chỉ mong làm tròn lời trăn trối cuối cùng của một gã rất ngu.

-Xin nói rõ hơn.

-Di vật này phiền cụ trao lại cho lệnh tiểu thư, được chăng?

Lão viên ngoại xăm xoi khối ngọc có hình trái tim, có chiều hoang mang, lão khẽ gật đầu…

♣ ♣

-Tiểu thư, khối ngọc đẹp quá.

Không có tiếng trả lời, Mỵ Nương tay ôm khối ngọc, đôi mắt lạc thần tưởng chừng ngưng đọng trong cõi hư vô. Bỗng nhiên từ khóe mắt thâm quầng nhỏ xuống hai giọt lệ, lệ chảy dài trên gò má xương xương không tô điểm, trở thành nhợt nhạt. Hình như dòng lệ đã được nén lại kịp thời, hoặc đã chảy ngược vào trong, nên chỉ có hai giọt long lanh nhỏ đúng vào khối ngọc, những vằn máu trong khối ngọc phút chốc đỏ rực lên, và đâu đây lại văng vẳng tiếng sáo, tiếng ngâm:

Nàng như người ở chiêm bao
Ta như lạc tự thuở nào tới đây…

Và hình bóng Trương Chi thổi sáo trên chiếc thuyền nan lại dật dờ trong khói sóng, con thuyền lang thang trong cuộc hành trình không bao giờ cặp bến.

-Tiểu thư, xin nén đau thương, u uất, coi chừng lại ngã bịnh.

Vẫn không có tiếng trả lời.

-Đã mười ngày qua cô không nói một câu, em làm sao trình lại lão gia.

-Ngọc nhi.

-Cô đã chịu nói rồi sao? Cảm ơn Trời Phật.

-Em mau tìm cách mở khóa cho ta.

-Tiểu thư, phòng khuê ba lớp khóa, luật nhà rất nghiêm, dù muốn em cũng đành bất lực.

-Em không muốn giúp ta sao? Xưa nay ta đãi em không bạc.

-Tiểu thư muốn đi đâu?

-Ta đi tìm tiếng sáo.

-Người thổi sáo chẳng đã chết rồi sao?

-Dẫu tới nghìn năm, ta tin tiếng sáo vẫn còn đọng lại giữa dòng sông…

Không biết sức mạnh nào đã giúp đôi chân nhỏ nhắn thoăn thoắt chạy tới bờ sông.

-Ngọc nhi, em hãy đi thôi, số nữ trang này đủ giúp em về quê sống đời thanh bạch. Xin nhận của ta một lễ tạ ơn.

-Tiểu thư…

Bóng cô gái lẻ loi chèo thuyền lẫn khuất trong lớp sương mờ. Gió sông lồng lộng, khó lắm mới gây được lò trầm. Cô gái buông chèo, bỏ mặc thuyền trôi. Tiếng đàn chợt vang lên trên mặt nước cuối thu rất lạnh. Thoạt đầu âm thanh ríu rít, đầm ấm như tiếng lòng thiếu nữ đang xuân, từ lúc ngả xuống giọng trầm, khúc đàn như chất chứa cả một trời buồn, xót xa vời vợi.

Bên bờ sông một bóng già nua, còm cõi, chết lặng trong tiếng thở dài:

-Tiểu khật khùng ơi, sao ngươi không về đây thổi sáo hòa với tiếng đàn?

Bóng trăng âm u làm trời đất tưởng chừng sâu thêm. Trên dòng sông lạnh, con thuyền rất bé, đơn độc, bồng bềnh trôi dạt, lạc dần vào vũng dày đặc sương mù, khói sóng, con thuyền chòng chành, chao đảo, quay tròn rồi bị cuốn hút xuống đáy sông sâu. Tiếng đàn sắc lạnh bật lên lần cuối rồi tắt lịm.

Bên sông lại có tiếng thở dài:

-Mô Phật! Này tiểu khật khùng, hồn ngươi liệu đã siêu thoát được chưa?...

♣ ♣ ♣

- Gió sông trở lạnh, khách quan, mời vào trong cho ấm.

Khách không trả lời, lặng lẽ đăm chiêu, với tay rót đầy ly rượu nóng, trang trọng rải xuống lòng sông một lần nữa, rồi lại rót đầy ly khác, che tay uống hết phần ba. Khách quay lại mỉm cười, khom lưng bước vào khoang thuyền nhỏ.

-Khách quan, chẳng hay người muốn nghe thêm khúc nào?

Khách xua tay:

-Thịnh tình xin tâm lãnh, cô nương cứ nghỉ tay.

-Hay là ngón đàn còn vụng, làm khách rác tai?

-Khúc đàn tuyệt diệu, chỉ nên nghe một lần, đã nghe một lần , không còn muốn nghe khúc khác.

Khách nâng chén, che tay uống cạn phần còn lại, rồi gục xuống bàn. Đưa tay vén lại lọn tóc rối, cô gái thu mình, ôm đàn xiết chặt vào lòng, nhìn khách bâng khuâng.

Chừng cạn một tuần trà, khách ngửng lên, sửa lại sống áo:

-Một đêm được hưởng thú thanh cao sông nước, lòng chợt nhớ tới Bạch Lạc Thiên, nên có mấy vần cảm tác Tỳ bà hành. Lời quê thô thiển, cô nương đừng cười. Giọng ngâm khàn đục khói thuốc với tuổi đời, tuy không hay mà vẫn khiến lòng người xúc động:

Ta đi trong nắng hoàng hôn tươi,
Em về son phấn nhạt môi cười.
Bèo mây vất vưởng phồn hoa lạnh
Còn một đêm này xin trót vui.

Trong cánh tay ta trời lãnh cung,
Dư hương phong kín vị phi tần.
Tháng năm em có buồn lên mắt,
Tóc xõa cho đêm dài nhớ nhung

Trăng cũ Tầm Dương, bến nào đây?
Hồn ta ý nhạc chớm vừa say.
Giao tình có động hồn thương nữ?
Lệ nhỏ cho buồn đọng ngón tay.

Áo xanh ta là Tư Mã xưa
Mà duyên bèo nước cũng ơ hờ.
Lòng ta một thoáng Trường Giang sóng,
Gió nổi không chờ phút tiễn đưa.

Lúc ấy phương đông trời bắt đầu hửng sáng, khách vén áo đứng dậy.

-Mặt trời lên không phải là lúc ngâm thơ. Cô nương! Xin hẹn ngày tái ngộ.

Người kỹ nữ cúi đầu, ngập ngừng, giọng nhẹ như gió thoảng:

-Ở tận đáy lòng, người kỹ nữ không bao giờ dám nghĩ đến câu tái ngộ.

1996